Tại Hội thảo, các đại biểu, chuyên gia đã đưa ra cái nhìn tổng quát về thực trạng tận dụng các FTA tại Việt Nam trong thời gian qua và trong bối cảnh hiện nay, trình bày về mô hình ý tưởng Hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA, đồng thời đánh giá tác động của Hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA tới nền kinh tế và thử nghiệm hệ thống chỉ tiêu đánh giá tác động của việc doanh nghiệp tham gia Hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA với doanh nghiệp thuộc các ngành được chọn, mô hình Hệ sinh thái FTA: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý áp dụng cho Việt Nam...
Đại diện Bộ, ngành trung ương, đại diện một số tỉnh, thành phố, Hiệp hội, ngành hàng (Điều, Cà phê, Da giày, Dệt may, Quế và cây gia vị, Thủy sản,…), các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế, pháp chế, luật, thương mại,… và nhiều doanh nghiệp trên cả nước đã đóng góp ý kiến, thảo luận về nội dung mô hình Hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA, trong đó có các vấn đề liên quan đến pháp lý thành lập, cấu trúc mô hình, cách thức vận hành, cách thức kết nối hoạt động, quy chế...
Theo báo cáo đánh giá, Việt Nam hiện là một trong những nước có độ mở về kinh tế lớn nhất thế giới, với số lượng FTA cho tới thời điểm hiện tại (tháng 3/2025) là 16 FTA đã có hiệu lực và 2 FTA đang đàm phán – xếp thứ 17 thế giới về số lượng FTA tham gia. Tổng cộng Việt Nam có gần 60 đối tác FTA trong đó có nhiều đối tác lớn như EU, Canada, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Tác động của các FTA (cả FTA truyền thống và thế hệ mới) được thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó có các tác động về mặt thương mại, đối với hoạt động xuất khẩu, Việt Nam từ vị trí số 48 năm 2004 đã vươn lên đứng vị trí số 15 thế giới vào năm 2024, cán cân thương mại từ thâm hụt giai đoạn 2004-2024 sang thặng dư giai đoạn 2016-2024.
Trong giai đoạn 2004-2024, kinh tế và chính trị thế giới trải qua nhiều biến động lớn như khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, đại dịch COVID-19 2020-2023, căng thẳng địa chính trị và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng trong những năm gần đây gây ra tác động mạnh mẽ tới thương mại thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, nhờ các chính sách thương mại quốc tế hiệu quả, đặc biệt là việc tham gia ngày càng nhiều FTA với các đối tác lớn, thương mại của Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu đáng trong bối cảnh khó khăn chung toàn cầu.
Cụ thể, về xuất khẩu, từ năm 2004 đến 2024, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng vượt bậc, từ 27 tỷ USD năm 2004 lên 406 tỷ USD năm 2024 (tăng khoảng 15 lần). Đặc biệt, giai đoạn từ 2016 trở đi chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu Việt Nam, một phần nhờ hiệu ứng tích cực của việc tham gia các FTA thế hệ mới. Ở chiều nhập khẩu, giai đoạn này cũng chứng kiến sự gia tăng đáng kể của nhập khẩu, từ 32 tỷ USD năm 2004 lên 381 tỷ USD năm 2024 (tăng khoảng 12 lần), phản ánh nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế trong nước đối với hàng hóa tiêu dùng và đặc biệt là nguyên liệu, máy móc phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, tốc độ tăng của nhập khẩu vẫn thấp hơn so với xuất khẩu, giúp cho cán cân thương mại của Việt Nam chuyển từ thâm hụt suốt giai đoạn 2004-2011 sang thặng dư từ 2016 trở đi và đạt đỉnh năm 2023 với giá trị thặng dư lên tới gần 28 tỷ USD (Hình 1).
Với những kết quả ấn tượng về thương mại mà một phần lớn nhờ việc tham gia các FTA đem lại, sau 20 năm Việt Nam đã từ một đối tác thương mại nhỏ - đứng thứ 48 về giá trị xuất khẩu và 43 về giá trị nhập khẩu của thế giới năm 2004, trở thành một trong những cường quốc thương mại của thế giới - đứng thứ 11 về xuất khẩu và thứ 15 về nhập khẩu của thế giới năm 2023 (ITC Trademap, 2025). Việt Nam hiện là một trong những nước có độ mở về thương mại lớn nhất thế giới với tỷ trọng thương mại (tổng xuất nhập khẩu) trên GDP năm 2023 là 166% - xếp thứ 13 thế giới và thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á (sau Singapore).
Từ năm 2004 đến năm 2024, xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường FTA tăng trưởng nhanh, luôn chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2024, các đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, ngoài Hoa Kỳ (thị trường xuất khẩu lớn nhất chiếm tới 29%), là Trung Quốc (15%), EU (13%), ASEAN (9%), Hàn Quốc (6%) và Nhật Bản (6%) đều là đối tác FTA của Việt Nam (Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2024). Các đối tác FTA mà Việt Nam có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhất sau khi (các) FTA với đối tác đó có hiệu lực có thể kể đến là: Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Chi Lê, Canada, Anh.
Xem xét cơ cấu tốp 10 đối tác xuất khẩu của Việt Nam năm 2004 và 2024 không có nhiều thay đổi về đối tác, chỉ có vị trí thứ 8 của Đài Loan (không có FTA với Việt Nam) năm 2004 đã bị thay thế bởi Ấn Độ (có FTA với Việt Nam – AIFTA có hiệu lực từ năm 2010) năm 2024. Tuy nhiên, vị thế của các đối tác có một số biến động đáng chú ý. Hoa Kỳ tiếp tục là đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam dù không có FTA chung nào, đặc biệt tỷ trọng còn tăng mạnh từ 19% năm 2004 lên 29% năm 2024. Trung Quốc cũng tăng tỷ trọng từ 11% lên 15%, giúp đối tác này chuyển từ vị trí số 5 năm 2004 lên vị trí số 2 năm 2024. Hàn Quốc và Ấn Độ cũng có sự gia tăng tỷ trọng và vị trí đáng kể trong giai đoạn này. Trong khi đó, các đối tác EU (27), ASEAN, Nhật Bản có sự sụt giảm cả về thị phần và vị trí.
Đối với các đối tác FTA thế hệ mới như Canada và Mexico, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này đã gia tăng sau khi Việt Nam thực thi CPTPP. Cụ thể, tỷ trọng xuất khẩu sang Canada trong tổng xuất khẩu của Việt Nam năm 2018 (năm trước khi CPTPP có hiệu lực với Việt Nam) là 1,2% thì đến năm 2024 đã tăng lên được 1,6%. Tương tự, thị trường Mexico chỉ chiếm 0,9% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam năm 2018 (năm trước khi CPTPP có hiệu lực với Việt Nam) và tỷ lệ này đã tăng lên 1,3% năm 2024 (Tổng cục Hải quan, ITC TradeMap, 2025).
Tuy nhiên, với EVFTA và UKVFTA, thị phần của EU và Anh trong xuất khẩu của Việt Nam lại giảm nhẹ so với trước khi các FTA liên quan có hiệu lực. Cụ thể, tỷ trọng của EU giảm từ 13,5% năm 2019 (năm trước khi EVFTA có hiệu lực) xuống còn 12,8% năm 2024. Đối với Anh, thị trường này chiếm tỷ trọng 1,8% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 (năm trước khi UKVFTA chính thức có hiệu lực) và đã tăng nhẹ lên mức 1,9% năm 2024 (Tổng cục Hải quan, 2025).
Những con số trên cho thấy nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu của Việt Nam chưa đạt được thành tựu đáng kể, xuất khẩu vẫn còn phụ thuộc khá lớn vào một số thị trường truyền thống. Tuy nhiên, cũng đã có những dấu hiệu tích cực cho thấy việc ký kết các FTA thế hệ mới gần đây đã đem lại một số hiệu quả nhất định nhằm đa dạng hóa đối tác xuất khẩu cho Việt Nam.
Về nhập khẩu, các đối tác FTA luôn chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2004 đến năm 2024. Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ khu vực châu Á, đặc biệt là từ Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN và Nhật Bản – các đối tác có nhiều FTA chung với Việt Nam và các FTA này đã thực hiện trong một thời gian dài. Kim ngạch nhập khẩu từ các đối tác này đóng góp khoảng 60% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam năm 2004 và tăng lên 64% năm 2024 (ITC Trademap, Tổng cục Hải quan, 2025).
Về cơ cấu xuất khẩu, so sánh cơ cấu tốp 10 nhóm hàng xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam năm 2004 với 2023 cho thấy một số dịch chuyển đáng kể. Năm 2004, xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc lớn vào nhiên liệu khai thác (dầu thô, than đá) và một số ngành sản xuất truyền thống (nông thủy sản, dệt may, giày dép). Tuy nhiên, đến năm 2024, cơ cấu xuất khẩu đã chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng mạnh tỷ trọng các sản phẩm công nghệ như máy móc, thiết bị điện tử (chủ yếu được sản xuất bởi các doanh nghiệp FDI) - chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (ITC Trademap, 2025). Đồng thời, các nhóm hàng công nghiệp chế biến như dệt may, giày dép, gỗ, nội thất cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể nhưng một số nhóm không còn chiếm ưu thế như trước. Trong khi đó, các sản phẩm nông thủy sản (chủ yếu được sản xuất bởi các doanh nghiệp trong nước) đều giảm dần tỷ trọng và vị thế trong xuất khẩu của Việt Nam (Bảng 4).
Sự thay đổi này phản ánh sự chuyển dịch trong cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, tận dụng các ưu đãi thuế quan từ các FTA, đồng thời cũng cho thấy sự vươn lên mạnh mẽ của khu vực FDI trong xuất khẩu vượt hơn hẳn khu vực trong nước.
Ngoài ra, các FTA tác động đến thể chế và môi trường kinh doanh, cụ thể, các FTA thế hệ mới với tiêu chuẩn cao như CPTPP, EVFTA, UKVFTA đặt ra yêu cầu cải cách thể chế và pháp luật đáng kể đối với Việt Nam. Có thể nói các FTA này đã tạo ra một làn sóng cải cách pháp luật trong nước mạnh mẽ lần thứ hai nhờ các cam kết quốc tế, sau lần cải cách đầu tiên khi Việt Nam tham gia WTO. Tác động của quá trình hoàn thiện pháp luật và tham gia các điều ước quốc tế thực thi các FTA thế hệ mới của Việt Nam trong thời gian qua cho thấy nhiều hiệu quả tích cực. Thể chế pháp luật và môi trường kinh doanh của Việt Nam được cải thiện theo hướng minh bạch hóa, giảm bớt thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp trong nước và nước người. Điều này thể hiện qua những thay đổi tích cực của Việt Nam trên các bảng xếp hạng thế giới.
Đối với tác động xã hội – môi trường, có thể thấy, các FTA đã đóng góp quan trọng vào việc tạo ra việc làm, nâng cao thu nhập, và giảm nghèo tại Việt Nam. Sự gia tăng đầu tư nước ngoài và mở rộng xuất khẩu đã cải thiện năng suất lao động, mang lại cơ hội cho người lao động tiếp cận công nghệ và nâng cao kỹ năng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động đã tăng từ 21,4 triệu VNĐ/lao động năm 2005 lên 201,2 triệu VNĐ/lao động năm 2023, tăng hơn 9 lần. Cơ hội việc làm mở rộng giúp tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 1,9% năm 2008 xuống còn 1,7% năm 2023. Tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam một phần nhờ đó cũng giảm từ 13,4% năm 2008 xuống còn 3,4% năm 2023. Tuy nhiên, sự gia tăng cạnh tranh khiến một số doanh nghiệp nhỏ và lao động có tay nghề thấp gặp khó khăn, làm tăng chênh lệch thu nhập giữa các khu vực, đặc biệt giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và trong nước, cũng như giữa công nghiệp/dịch vụ và nông nghiệp.
Bên cạnh đó, việc mở rộng sản xuất, thương mại và đầu tư nhờ các FTA cũng tạo áp lực lớn lên tài nguyên thiên nhiên và môi trường ở Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã mang công nghệ lạc hậu vào Việt Nam, hoặc đầu tư vào các ngành tiêu tốn tài nguyên để xuất khẩu. Một số doanh nghiệp lợi dụng tiêu chuẩn môi trường chưa chặt chẽ để tiến hành các hoạt động sản xuất có nguy cơ ô nhiễm cao. Ví dụ, vụ xả thải của Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã gây ra thảm họa môi trường nghiêm trọng tại khu vực miền Trung Việt Nam. Hiện tại, cường độ carbon của hàng xuất khẩu của Việt Nam ở mức 1,6 kg CO2/USD, cao hơn nhiều nước khác trong khu vực, và cao gấp đôi so với Trung Quốc, gây ra ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng. Tuy nhiên, các FTA thế hệ mới như EVFTA và CPTPP đã thúc đẩy cải cách chính sách môi trường, nâng cao tiêu chuẩn xanh và tăng cường giám sát. Nhờ đó, ngày càng nhiều doanh nghiệp áp dụng công nghệ sạch và mô hình sản xuất bền vững để phù hợp với yêu cầu quốc tế..
Tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi từ các hiệp định, mức độ tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu (global value chain)...cho thấy mức độ doanh nghiệp tận dụng các lợi ích mang lại từ các FTA, phân tích của các chuyên gia tại hội thảo thông qua phân tích đường cong nụ cười (Smile Curve) giúp xác định vị trí của Việt Nam trong GVC thông qua việc đánh giá giá trị gia tăng của từng công đoạn trong chuỗi. Thông thường, GVC của các sản phẩm bao gồm các công đoạn chính như: 1. Nghiên cứu & Phát triển; 2. Thiết kế; 3. Thu mua đầu vào; 4. Sản xuất; 5. Phân phối; 6. Tiếp thị & Bán hàng; 7. Dịch vụ sau bán hàng. Trong số này, công đoạn sản xuất thường có giá trị gia tăng thấp nhất, và đây là công đoạn mà các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tham gia. Ngược lại, các công đoạn có giá trị gia tăng cao như nghiên cứu & phát triển, thiết kế, tiếp thị & bán hàng, và dịch vụ sau bán hàng, đòi hỏi kỹ thuật, sáng tạo và kỹ năng cao, là những lĩnh vực mà sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Thực tế trên có thể thấy rõ ràng nhất ở các ngành như dệt may và giày dép khi các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu làm gia công các công đoạn may và hoàn thiện sản phẩm cho các thương hiệu nước ngoài. Tuy nhiên, một số lĩnh vực đã có sự vươn lên để tham gia sâu hơn vào các công đoạn cao của chuỗi giá trị, như ngành điện tử và năng lượng tái tạo.
Trong năm 2023, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức một số hội thảo trao đổi trực tiếp với Lãnh đạo các doanh nghiệp trong trong một số lĩnh vực xuất khẩu chủ lực của Việt Nam về kế hoạch cụ thể để tận dụng các FTA. Những hội thảo này nhận được nhiều sự quan tâm của Cơ quan quản lý địa phương cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, logitics, tư vấn, ... Tại những hội thảo này, doanh nghiệp các địa phương đã nêu ra những vấn đề tồn tại, vướng mắc gặp phải trong quá trình tận dụng FTA. Cụ thể, hầu hết các doanh nghiệp này đều gặp những khó khăn chung như thiếu thông tin về thị trường và quy định nước ngoài; khó khăn tiếp cận vốn, tín dụng; khó đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu; chưa xây dựng được thương hiệu, đặc biệt là thiếu sự tư vấn và hỗ trợ về chính sách và tiếp cận thị trường nước ngoài.
Trên cơ sở đó, trong năm 2024, Bộ Công Thương đã tổ chức 09 Tọa đàm trao đổi với lãnh đạo các doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lý tại các địa phương lấy ý kiến về ý tưởng Hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA, trước mắt hướng tới 06 nhóm ngành, sản phẩm gồm: quế, điều, thuỷ sản, dệt may, da giày và cà phê. Theo đó, Bộ Công Thương sẽ xây dựng 01 Hệ sinh thái nhằm: (i) Giúp doanh nghiệp tối ưu hóa lợi ích FTA; (ii) Xây dựng văn hóa kết nối, hợp tác và (iii) Thúc đẩy hợp tác giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp.