Thị trường hàng hóa ngày 24/5: Vàng, cacao, chè, đường cùng tăng giá trong khi dầu mỏ, cao su và thép đều đi xuống

Thứ tư - 23/05/2018 21:11
Thép tiếp tục giảm về mức thấp mới trong 1 tháng trở lại đây trong khi dầu mỏ thì chịu áp lực vì nguồn cung dồi dào.
Thị trường hàng hóa ngày 24/5: Vàng, cacao, chè, đường cùng tăng giá trong khi dầu mỏ, cao su và thép đều đi xuống
Dầu giảm do lo ngại nguồn cung
Giá dầu thô giảm trong ngày 23/05 trong bối cảnh Mỹ bất ngờ xây dựng dự trữ dầu thô và xăng bất chấp nhu cầu mạnh trong khi khả năng OPEC tăng sản lượng dầu thô để bù đắp bất kỳ thiếu hụt nào từ Iran và Venezuela.
Dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 5,8 triệu thùng trong tuần trước, trong khi dự trữ xăng tăng thêm 1,9 triệu thùng, Cơ quan Thông tin Năng lượng cho biết.
Chốt phiên giao dịch, giá dầu thô Brent kỳ hạn giảm 23 cent xuống 79,80 USD/thùng, trong khi dầu thô Mỹ giảm 36 cent xuống còn 71,84 USD/thùng.
Giá dầu đã tăng gần 20% từ đầu năm tới nay, chủ yếu do nguồn cung cắt giảm tại OPEC và các đối tác bao gồm Nga.
OPEC có thể sẽ quyết định tăng sản lượng dầu ngay từ tháng 6 này do sản lượng của Venezuela sụt giảm, lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran, và sau khi Washington bầy tỏ lo ngại giá dầu đã tăng quá mạnh, theo Reuters.
Giá dầu cũng bị ảnh hưởng bởi tình hình căng thẳng địa chính trị gia tăng có thể làm giảm sản lượng toàn cầu trong khi nhu cầu có thể đạt 100 triệu thùng/ngày trong quý cuối cùng của năm nay, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế.
Trong một diễn biến khác, theo Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes, các công ty năng lượng Mỹ đã nâng tổng số giàn khoan dầu hoạt động ở nước này lên 844 giàn, mức cao nhất kể từ tháng 3/2015.
Vàng tăng giá
Giá vàng đã tăng lên trong ngày hôm qua khi USD rời khỏi mức cao so với một rổ tiền tệ trong khi các nhà đầu tư ngóng đợi biên bản cuộc họp chính sách mới nhất của Fed để tìm kiếm dấu hiệu về kế hoạch tăng lãi suất của ngân hàng này. Hầu hết các nhà hoạch định chính sách của Fed đầu cho rằng nên tăng lãi suất sớm nếu triển vọng kinh tế Mỹ vẫn như dự kiến.
Vàng giao ngay đã tăng 0,3% lên 1.294,19 USD ounce lúc 18:35 GMT, sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 15/5 là 1.297,84. Giá vàng kỳ hạn tại Mỹ giao tháng 6 giảm 2,40 USD, tương đương 0,2%, ở mức 1.289,60 USD /ounce.
Giá bạc giảm 0,4% còn 16,45 USD/ ounce và bạch kim giảm 0,2% còn 904,30 USD/ounce. Giá palladium giảm 1,2% xuống 979,10 USD/ounce.
Giới đầu tư hiện còn thận trọng về kết quả của các cuộc đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump bày tỏ sự không hài lòng về những cuộc đối thoại gần đây. Các căng thẳng chính trị có thể làm tăng nhu cầu đối với các tài sản đảm bảo như vàng và đồng yen.
Thép chạm xuống mức thấp nhất 1 tháng
Giá thép xây dựng của Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất trong một tháng vào ngày 23/05, do lo ngại về nguồn cung dư thừa quá mức.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 10 trên sàn Thượng Hải chốt phiên giao dịch giảm 1,4% xuống 3.531 NDT (553,44 USD)/tấn, phiên sáng chạm mức 3.511 NDT, mức thấp nhất kể từ ngày 23/4.
Lo lắng về nguồn cung dư thừa đến từ việc tỷ lệ sử dụng công suất tại các nhà máy thép đã tăng lên mức 70,17% trong tuần trước. Sản lượng thép thô hàng ngày của các công ty thép lớn đạt kỷ lục mới 1,94 triệu tấn trong 10 ngày đầu tháng 5.
Đầu tuần này, Bộ kế hoạch nhà nước Trung Quốc cho biết sẽ cử các đoàn kiểm tra về tình hình dư thừa tại các nhà máy thép ở 21 khu vực, bao gồm các tỉnh sản xuất thép chính của Hà Bắc, Giang Tô và Sơn Đông, từ 22/5 đến 15/6.
"Các kiểm tra bất ngờ có thể ảnh hưởng đến sản xuất, nhưng nhìn chung, sản lượng thép sẽ vẫn ở mức cao. Với nhu cầu tăng lên, giá thép sẽ có xu hướng giảm", các nhà phân tích tại Orient Futures cho biết.
Giá nguyên liệu thô sản xuất thép giảm theo xu hướng giá thép cây. Giá giao dịch quặng sắt trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 0,7% xuống còn 456,50 NDT /tấn, phiên giảm thứ 6 liên tiếp và phiên sáng đã chạm mức thấp nhất kể từ ngày 18/4. Giá than luyện cốc kỳ hạn đóng cửa giảm 4,6% xuống 1.175,50 NDT /tấn sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 27/4 ở mức 1.164,50 NDT / tấn. Giá than cốc giao tháng 9 đã giảm 4,3% xuống 1.959,50 NDT /tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 4/5.
Cao su rời khỏi mức cao nhất 4 tháng
Giá cao su kỳ hạn tham khảo tại Tokyo trong ngày 23/05 giảm nhẹ khỏi mức cao nhất 4 tháng qua đạt được trong phiên trước đó trong bối cảnh giá cao su tại Thượng Hải giảm, đồng yên vững giá hơn so với USD do lo ngại về các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung sẽ làm suy yếu tăng trưởng kinh tế thế giới vốn đã rất mong manh.
Đồng yên đã tăng 1% so với USD do lo ngại tình hình xấu đi khi Tổng thống Donald Trump tỏ ra không hài lòng về các cuộc đàm phán thương mại.
Giá cao su hợp đồng kỳ hạn tháng 8 tại Tokyo giao tháng 10 giảm 2,5 yên xuống còn 196,5 yen (1,8 USD)/kg, giảm khỏi mức cao đạt được hôm 22.05 là 202.1 yên, mức cao nhất kể từ ngày 29/1/2018.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải chốt phiên giảm 320 NDT xuống còn 11.860 NDT (1.857 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn trên sàn SICOM của Singapore giao tháng 6 đóng cửa ở mức 144,0 cent Mỹ/kg, giảm 3,3 cent.
Đường chạm mức cao nhất 6 tuần
Giá đường trắng kỳ hạn đã tăng lên mức cao nhất 6 tuần qua trong ngày 23/05/2018 do triển vọng ảm đạm vụ mùa ở Brazin và Ấn Độ thông báo các biện pháp đối phó với nguồn cung cấp dư thừa đường. Ấn Độ đang xem xét xây dựng kho dự trữ gối vụ đường, điều này sẽ hạn chế xuất khẩu, ít nhất là trong ngắn hạn.
Giá đường thô giao tháng 7 chốt phiên tăng 0,2 cent, tương đương 1,7%, đạt mức 12,35 cent/lb, sau khi tăng lên mức cao nhất trong 6 tuần ở mức 12,44 cent.
Giá đường trắng giao tháng 8 chốt phiên đã tăng 6,40 USD, tương đương 1,9%, đạt mức 349,40 USD/tấn, sau khi tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 26/3 là 350,30 USD.
Cacao tăng giá, thoát mức thấp 5 tuần
Giá ca cao giao tháng 7 tại New York chốt phiên tăng 29 USD, tương đương 1,1%, đạt 2.618 USD/tấn, tăng trở lại từ mức thấp nhất trong 5 tuần là 2.575 USD vào hôm trước đó, do thị trường Mỹ bị áp lực bởi GBP yếu so với USD và hoạt động mua đầu cơ. Giá cacao giao tháng 7 tại Luân Đôn đã tăng 25 pound, tương đương 1,4%, đạt 1.882 pound /tấn.
Cà phê giảm giá sau 6 phiên tăng
Giá cà phê arabica giao tháng 7 chốt phiên giảm 1,5 cent, tương đương 1,2%, ở mức 1,1935 USD /lb, lần giảm đầu tiên trong 6 phiên qua do nhiệt độ ấm lên ở nước trồng cà phê lớn Brazil sau một đợt sương giá nhẹ ở một số khu vực. Tuy nhiên, các điều kiện khô hạn ở Brazil đã dấy lên lo ngại về vụ mùa ở đó. Giá cà phê robusta giao tháng 7 giảm 39 USD, tương đương 2,2%, xuống 1.751 USD / tấn.
Chè tăng 2 phiên liên tiếp
Giá chè tại Bangladesh đã tăng trong phiên đấu giá hàng tuần, lần tăng thứ hai liên tiếp, do nhu cầu mạnh đối với lá chè chất lượng cao bất chấp khối lượng chào bán cao hơn.
Giá chè Bangladesh đạt trung bình 223,71 taka (2,6 USD)/kg tại trung tâm đấu giá ở thành phố cảng Chittagong ngày 22/03, so với mức 216,14 taka tại lần bán trước đó ở trung tâm đấu giá mới ở Srimangal.
Nhu cầu mạnh từ người mua mặc dù nguồn cung cao hơn so với lần bán trước đó tại trung tâm đấu giá ở khu vực đông bắc nước này, nơi trồng hầu hết các vườn chè của nước này, một quan chức tại National Brokers cho biết.
Chỉ 1,8% trong tổng số 1,27 triệu kg được cung cấp trong phiên đấu giá đã không được bán. Tại phiên đấu giá trước, có khoảng 538,843 kg được chào bán, trong đó 1,85% không bán được.
Sản lượng chè của Bangladesh giảm xuống còn gần 79 triệu kg trong năm 2017 so với mức kỷ lục 85 triệu kg năm trước đó do mưa quá nhiều.
Nước Nam Á này là nước xuất khẩu chè lớn thứ năm trên thế giới trong những năm 1990, nhưng hiện là nước nhập khẩu ròng vì mức tiêu thụ nội địa tăng mạnh theo tăng trưởng kinh tế.
Giá một số mặt hàng chủ chốt lúc 7h sáng ngày 24/5
bang gia ngay 24

Tác giả: Lê Bích - TTKC

Nguồn tin: Theo Cafef:

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Hoi dap
Idesk
Email
Chuyen doi so
ISO
LICH TIEP CONG DAN
CCHC
Đánh giá dịch vụ công
Bình chọn SẢN PHẨM CNNTTB
Tiềm năng, thế mạnh và các sản phẩm thương mại
Code Buy Transfer Sell
AUD 15,687.11 15,845.56 16,354.58
CAD 17,765.99 17,945.45 18,521.92
CNY 3,366.94 3,400.95 3,510.73
EUR 26,153.22 26,417.39 27,588.37
GBP 30,568.76 30,877.53 31,869.43
HKD 3,083.72 3,114.87 3,214.93
JPY 159.36 160.97 168.67
SGD 17,960.45 18,141.87 18,724.65
USD 24,560.00 24,590.00 24,910.00
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây