Sở Công Thương Đắk Lắkhttps://socongthuong.daklak.gov.vn/assets/images/logo.png
Thứ ba - 24/06/2025 04:35
Việt Nam đã ký kết và đưa vào hiệu lực 16 FTA, trong đó có 03 FTA thế hệ mới, 54 đối tác FTAs ở 4/5 châu lục, đứng thứ 17 thế giới, thứ 02 ở ASEAN về lượng Hiệp định thương mại tham gia. Việc đánh giá mức độ hưởng lợi của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung đối với việc tham gia ký kết các FTA trong những năm gần đây được phân tích, đánh giá và tuyên truyền tích cực trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng cũng như bởi các cơ quản quản lý nhà nước cả trung ương và địa phương.
Hội thảo về Hiệp định AANZFTA tại Hà Nội
Theo đánh giá tại Hội thảo tham vấn xây dựng hệ sinh thái tận dụng các Hiệp định thương mại tự do được tổ chức bởi Bộ Công Thương vào ngày 20/6/2025, tăng trưởng xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam giai đoạn 2004-2024, xuất khẩu của Việt Nam từ thứ 48 năm 2004 lên thứ 15 thế giới năm 2024, nhập khẩu: từ thứ 43 năm 2004 lên thứ 18 thế giới năm 2024, cán cân thương mại từ thâm hụt giai đoạn 2004-2011 sang thặng dư 2016-2024, độ mở về thương mại (tổng XNK/GDP) 166% - thứ 13 thế giới và thứ 02 ở ASEAN, tăng trưởng xuất khẩu trung bình 2004-2024: 15,9%, so với thế giới 6,4%, ASEAN 7,9%. Hoạt động chuyển dịch về đối tác thương mại sang các thị trường FTA, trong đó, xuất khẩu luôn chiếm khoảng 70% - năm 2024, Trung Quốc chiếm 15%, EU chiếm 13%, ASEAN chiếm 9%, Hàn Quốc chiếm 6%, Nhật Bản chiếm 6%..., gia tăng thâm hụt đối với các đối tác FTA lâu năm.
Đối với tác động của FTA vào hoạt động đầu tư, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2010-2024, từ 4 tỷ USD năm 2004 lên 38 tỷ USD năm 2024, tăng trưởng trung bình 2004-2023: 17,9%, so với thế giới 8,2%, ASEAN 16,9%, từ vị thế thứ 53 từ năm 20024 lên vị trí thứ 24 toàn cầu năm 2023 về thu hút FDI. FTA được cho có tác động đến thể chế và môi trường kinh doanh, tỷ lệ sử dụng C/O form D (ATIGA) của Việt Nam những năm gần đây khoảng 40% so với trung bình ASEAN trên 50%, Giá trị gia tăng trong nước trong tổng xuất khẩu của Việt Nam giảm từ 68,4% năm 2007 xuống 49,4% năm 2022 (theo ADB RIVA), giá trị gia tăng trong nước của Việt Nam thấp hơn nhiều nước trong khu vực.
Đối với mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, liên kết xuôi (chỉ số thể hiện khả năng Việt Nam cung cấp nguyên liệu, linh kiện hoặc sản phẩm trung gian cho các quốc gia khác): Giảm từ 7,6% năm 2007 xuống còn 4,6% năm 2022, vai trò của Việt Nam chưa cao trong việc cung cấp đầu vào trung gian cho chuỗi giá trị toàn cầu do chủ yếu tham gia vào công đoạn sản xuất và lắp ráp cuối cùng, theo đánh giá, trong chuỗi giá trị, doanh nghiệp Việt Nam thường tham gia vào công đoạn gia công sản xuất- công đoạn có giá trị gia tăng thấp nhất, hoạt động liên kết DN trong nước và FDI còn yếu, theo đó, chỉ có khoảng 100 DN Việt Nam là nhà cung ứng cấp 1, khoảng 700 DN là nhà cung ứng cấp 2 và cấp 3 cho các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam.
Đánh giá các nguyên nhân vì sao mức độ hưởng lợi của doanh nghiệp Việt Nam với các FTA còn thấp, trong đó phải kể đến các nguyên nhân như: thiếu thông tin về cam kết và cách thức thực hiện, sự bất cập trong tổ chức thực thi của các cơ quan quản lý nhà nước, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp so với các đối thủ, việc áp dụng quy tắc xuất xứ còn gặp nhiều khó khăn do mức độ phức tạp, đồng thời, còn tổn tại các cam kết mang tính bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam, việc tiếp cận đối với các gói tài chính, tín dụng còn nhiều khó khăn, thiếu hụt nguồn cung trong nước, khó khăn trong xây dựng thương hiệu, thiếu hệ thống kết nối hỗ trợ doanh nghiệp, mức độ phụ thuộc vào các thị trường lớn còn khá cao, trong khi chủ nghĩa bảo hộ thương mại có xu hướng gia tăng mạnh mẽ,...ngoài ra, việc đáp ứng các xu hướng mới của thương mại quốc tế: dịch chuyển chuỗi cung ứng, yêu cầu phát triển bền vững, chuyển đổi số và ứng dụng AI....còn thấp trong hệ thống các doanh nghiệp cả nước. Mặc dù việc tham gia FTA đồng nghĩa với các ưu đãi về thuế quan, tuy nhiên, các biện pháp phi thuế quan lại có xu hướng gia tăng và đang trở thành rào cản chính đối với thương mại thế giới.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, nông sản hiện là một trong số những ngành hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng, từ 4,9 tỷ năm 2006 lên đến 28,9 tỷ năm 2024 (chiếm 7,1% tổng xuất khẩu của cả nước). Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam rất đa dạng, bao gồm rau quả (nhiều nhất - chiếm 24,7%), gạo (19,6%), cà phê (19,4%), hạt điều (15%), cao su (11,8%), hồ tiêu (4,5%)… Đáng chú ý, nhiều mặt hàng đã khẳng định được vị thế trên bản đồ nông sản thế giới, như hồ tiêu, điều đứng thứ nhất, cà phê đứng thứ hai, gạo đứng thứ ba thế giới năm 2024. Các FTA với các cam kết cắt giảm thuế quan mạnh (lên tới gần 100%) và bảo hộ chỉ dẫn địa lý (EVFTA, UKVFTA) đã góp phần thúc đẩy xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam, đáng chú ý phải kể đến rau quả (tăng từ 259 triệu USD năm 2006 lên đến 7,1 tỷ USD – gấp hơn 27 lần), cao su (tăng từ 110 triệu USD năm 2006 lên 3,4 tỷ USD năm 2024 – gấp 31 lần), hạt điều (tăng từ 504 triệu USD năm 2006 lên đến 4,3 tỷ USD năm 2024 – gấp gần 9 lần)…
Trao bằng khen cho các tỉnh, thành có thành tích khá trong việc thực hiện các FTA
Việc ký kết nhiều FTA đã giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nhưng nước ta vẫn còn phụ thuộc nhiều vào hai thị trường chính là Trung Quốc và Hoa Kỳ - lần lượt chiếm khoảng 30% và 10% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam năm 2023. Một số sản phẩm xuất khẩu phụ thuộc khá cao vào thị trường Trung Quốc như rau quả (Trung Quốc chiếm tới 65% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam năm 2023), cao su (Trung Quốc chiếm gần 80%). Tuy nhiên, cũng có nhiều nông sản khác đã đa dạng hóa được thị trường xuất khẩu như cà phê, chè, tiêu, điều. Đặc biệt, với việc ký kết thêm nhiều FTA với nhiều đối tác phát triển, trong những năm gần đây Việt Nam đã gia tăng xuất khẩu nông sản, đặc biệt là rau quả, sang các thị trường EU, Anh và Canada. Cụ thể, trong giai đoạn từ 2019-2024, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU tăng từ 2,3 tỷ USD đến 3,6 tỷ USD (tính riêng rau quả tăng từ 148 triệu lên 242 triệu), xuất khẩu nông sản sang Anh tăng từ 236 triệu USD lên 338 triệu USD (rau quả tăng từ 8,5 triệu USD lên 37,5 triệu USD), xuất khẩu nông sản sang Canada tăng từ 153 triệu USD lên 235 triệu USD (trong đó xuất khẩu rau quả tăng từ 25,9 triệu USD lên 69,1 triệu USD) (Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan, 2025).
Trong thời gian tới, các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương sẽ tiếp tục khắc phục và đẩy mạnh việc tuyên truyền những lợi ích doanh nghiệp có thể hưởng từ các FTA, trong đó, một trong các tồn tại cần khắc phục là nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự nhận thức được các cơ hội và thách thức từ các FTA nên còn thờ ơ trong việc tham gia các hoạt động phổ biến và đào tạo về FTA, đồng thời cũng thiếu tích cực chủ động tìm hiểu các cam kết có liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với nguyên nhân doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện về xuất xứ, từ đó, không được hưởng lợi từ các ưu đãi về thuế quan, đa số đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam là nhập khẩu từ các đối tác truyền thống trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, Hàn Quốc, và ASEAN. Do đó, với một số FTA không bao gồm các đối tác trên, để đáp ứng được quy tắc xuất xứ hiệp định, doanh nghiệp cần gia tăng sử dụng đầu vào trong nước. Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa phát triển, nguồn cung hạn chế và giá cao, khiến các lợi ích từ thuế quan ưu đãi FTA nhiều khi không bù đắp được chi phí gia tăng do sử dụng nguồn cung trong nước. Tình trạng thiếu hụt đầu vào trong nước ngày càng lớn khiến Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào các nguồn cung nhập khẩu. Việc không tự chủ về nguyên liệu sẽ khiến các ngành xuất khẩu gặp rủi ro lớn khi có biến động trên thị trường thế giới khiến chuỗi cung ứng bị đứt gãy.
Thêm vào đó, doanh nghiệp sẽ khó đáp ứng được quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan từ một số FTA của Việt Nam, và do đó bỏ lỡ các lợi ích từ các FTA này để gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam hiện là quốc gia có chi phí liên quan đến chứng từ xuất khẩu cao nhất trong khu vực các nước Asean, điều này cũng làm giảm năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp trong khu vực.
Đắk Lắk tuyên truyền về EVFTA
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam có thế mạnh sản xuất nhiều sản phẩm như gạo, cà phê, hạt điều, hạt tiêu, và trái cây nhiệt đới nhưng xuất khẩu lại chủ yếu dưới dạng nguyên liệu thô hoặc gia công sơ bộ. Chính vì vậy, giá trị gia tăng thấp và không có thương hiệu riêng tại thị trường nước ngoài. Một số sản phẩm đã xây dựng được thương hiệu trong nước và bán được ra nước ngoài với thương hiệu của mình, nhưng do nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài nên đã bị doanh nghiệp nước ngoài đăng ký trước và mất quyền sở hữu thương hiệu của mình. Bên cạnh đó, cũng có không ít doanh nghiệp đã xây dựng được thương hiệu tại nước ngoài nhưng không có chiến lược quảng bá thương hiệu để tiếp cận được nhiều khách hàng hơn.
Hiện nay, Bộ Công Thương đang triển khai chương trình thương hiệu quốc gia (Vietnam Value) nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng, quảng bá thương hiệu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, dù đã có nhiều thương hiệu được công nhận ở cấp độ quốc gia, số lượng thương hiệu Việt đạt tầm quốc tế vẫn còn hạn chế. Đó là bởi vì để đưa những thương hiệu quốc gia ra thế giới đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Các doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng và xác định các kênh phân phối. Sau đó, doanh nghiệp cần đầu tư vào thiết kế và chế biến sản phẩm để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng nước ngoài. Tiếp đến phải quảng bá rộng rãi thương hiệu và kết nối với khách hàng, thuyết phục họ lựa chọn các thương hiệu Việt Nam trong số rất nhiều các lựa chọn thay thế. Tất cả các giai đoạn này đòi hỏi các nguồn lực đáng kể, bao gồm bí quyết, công nghệ và tài chính, đặt ra thách thức cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
Đối với kinh nghiệm quốc tế, một số nước như Hàn Quốc đã xây dựng Trung tâm hỗ trợ FTA, đây là một cổng thông tin toàn diện để hỗ trợ doanh nghiệp truy cập một cách trực quan các thông tin khác nhau trong quá trình tận dụng FTA và một cơ quan một cửa cung các dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp. Cổng thông tin này cung cấp các nội dung tổng quan như toàn văn các hiệp định, mã HS, quy trình thông quan, danh sách các đơn vị chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, công cụ tính toán lợi ích về thuế quan, tự đánh giá tình trạng tuân thủ các quy định về nguồn gốc xuất xứ...Vương quốc Anh xây dựng lại chiến lược thương mại quốc tế và các cơ quan tham mưu thực thi các hiệp định thương mại tự do, trong đó, việc thành lập Vụ thực thi các hiệp định thương mại tự do nhằm để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao hiểu biết về các lợi ích mang lại từ các FTAs và tiếp cận với các đối tác nước ngoài, nâng cao năng lực cho các cán bộ phụ trách và cố vấn về FTA.
Đối với Việt Nam, một trong những bài học kinh nghiệm cần được áp dụng là tăng cường khả năng liên kết với các đối tác nước ngoài và các hệ thống quốc tế hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp trong tận dụng các hiệp định FTA. Thiếu thông tin thị trường và tiếp cận với các đối tác nước ngoài là hai trong số các khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp gặp phải khi tận dụng các FTA, điều này yêu cầu các chương trình kết nối có khả năng vươn rộng ra khỏi phạm vi trong nước và giải quyết được các vấn đề ở hạ nguồn của chuỗi cung ứng, tức là tiếp cận được các đối tác và thị trường nước ngoài để hỗ trợ doanh nghiệp. Mô hình của Vương quốc Anh đầu tư nhiều nguồn lực vào các hoạt động xúc tiến thương mại và nâng cao năng lực để doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong việc tiếp cận các đối tác nước ngoài, hạn chế thông qua các tổ chức trung gian. Trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay và nhu cầu thực tế của doanh nghiệp trong nước, yếu tố “liên kết” phải kết hợp linh hoạt các hoạt động liên kết trong nước để sản xuất các mặt hàng đáp ứng tiêu chuẩn và yêu cầu kỹ thuật của các thị trường nước ngoài và các hoạt động liên kết, hợp tác quốc tế để củng cố các kênh tiếp thị, bán hàng, đa dạng hóa thị trường nhằm tận dụng tốt nhất tất cả các thị trường có FTA với ta thay vì bị động vào các thị trường truyền thống.
Mô hình hệ sinh thái FTA trong tương lai khi được áp dụng và vận hành nhằm thúc đẩy quá trình tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) một cách toàn diện và hiệu quả, đóng vai trò là công cụ hỗ trợ quan trọng, giúp hiện thực hóa tối đa các lợi ích mà các hiệp định FTA mang lại. Hệ sinh thái FTA mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho các bên tham gia, bao gồm doanh nghiệp, cơ quan quản lý và các đối tác hỗ trợ. Việc tham gia vào hệ sinh thái không chỉ giúp tối ưu hóa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sự phối hợp hiệu quả giữa khu vực công và khu vực tư, tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định thương mại tự do. Đây có thể được coi là một giải pháp quan trọng và tổng thể giúp giải quyết được cùng lúc các thách thức kể trên để hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các lợi ích mà các FTA đem lại.